số điện thoại tiếp nhận
phản ánh kiến nghị về tthc
1
Phòng Tổng hợp - UBND tỉnh
Điện thoại: 02963.957.006
Email: thutuchanhchinh@angiang.gov.vn
2
Tổ kiểm tra công vụ
Điện thoại: 02963.957.049 - 0378.247.247
Email: kiemtracongvu@angiang.gov.vn
đường dây nóng ngành nông nghiệp An Giang
1
2
Ông Lê Hoàng Tâm (Phó Chánh Văn phòng Sở)
Điện thoại: 0919.199.392
Email: lhtam@angiang.gov.vn
10:45 21/06/2024
Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 188,97 tỷ USD, tăng 13,8%; - Lượng phân bón nhập khẩu của cả nước đạt hơn 2,12 triệu tấn.
Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 188,97 tỷ USD, tăng 13,8%
Theo ông Bùi Huy Sơn - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công thương), một trong những điểm sáng của nền kinh tế trong nửa đầu năm 2024 đó là xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 188,97 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tại buổi họp báo thường kỳ quý II/2024 và gặp mặt các cơ quan báo chí nhân dịp kỷ niệm 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1945 - 21/6/2024) do Bộ Công Thương tổ chức chiều 19/6, ông Bùi Huy Sơn, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Công Thương) cho biết, 6 tháng đầu năm 2024 ngành công thương đã vượt khó để phục hồi và đạt vượt mức kế hoạch trên hầu hết các chỉ tiêu được giao.
Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 7,1%, kế hoạch là 5,97-6,68%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí ước tăng 12,9%, kế hoạch là 5,92-6,84%; xuất khẩu ước tăng 13,8%, kế hoạch là 8,3%; nhập khẩu ước tăng 18,4%, kế hoạch là 13,7%, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp với chỉ số IIP tăng cao.
Cũng theo ông Bùi Huy Sơn, trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 188,97 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 11,3%). Xuất khẩu tăng ở các khu vực kinh tế và tăng cao ở nhóm doanh nghiệp trong nước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Nông sản tiếp tục là điểm sáng về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 18,21 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2024. Một số mặt hàng nông sản tăng cao như: cà phê tăng 43,9%; gạo tăng 38,2%; chè các loại tăng 20,1%; rau quả tăng 28,2%; nhân điều tăng 19,3%; hạt tiêu tăng 19,7%; sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 19,2%.
Các thị trường xuất khẩu cơ bản có sự phục hồi tốt và đạt mức tăng trưởng cao, trong đó nổi bật là thị trường Hoa Kỳ (ước đạt 43,98 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng tới 21% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường Trung Quốc với kim ngạch ước đạt 22,65 tỷ USD, tăng 10,2%; thị trường EU ước đạt 20,69 tỷ USD, tăng 16,1%; Hàn Quốc ước đạt 10,4 tỷ USD, tăng 12,8%.
Trong 6 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 369,59 tỷ USD, tăng 16,03% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục thặng dư với xuất siêu ước đạt 8,4 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 13,4 tỷ USD) và chủ yếu do đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả dầu thô (5 tháng xuất siêu 19,27 tỷ USD).
Cũng trong 5 tháng, thị trường trong nước đã được khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành trong 6 tháng đầu năm ước đạt 3.106 nghìn tỷ, tăng 8% so với cùng kỳ (cùng kỳ 2023 tăng 1,8%).
Tiêu dùng hàng hóa tăng trưởng mạnh và ổn định ở mức cao đối với các nhóm hàng hóa cho thấy thu nhập thực tế người dân đã được cải thiện từ phục hồi kinh tế. 6 tháng đầu năm 2024, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 2.406 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,48% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 3,8%).
Dù đạt được những kết quả tích cực, song theo lãnh đạo Bộ Công Thương, trong 6 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp phục hồi chưa đồng đều. Cùng đó, hoạt động sản xuất và cung ứng năng lượng, đặc biệt là đối với điện và xăng dầu vẫn còn tiềm ẩn nhiều khó khăn do biến động giá cả xăng đầu trên thị trường trong nước và quốc tế; tình hình thời tiết, thủy văn không ổn định gây ảnh hưởng đến cung – cầu về điện.
Thêm vào đó, hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng tốt, nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Đó là xuất nhập khẩu vẫn tiếp tục phụ thuộc vào một số thị trường, mặt hàng và khu vực FDI.
Theo lãnh đạo Bộ Công thương, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang các thị trường lớn như EU, Mỹ… tiếp tục phải đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại, các rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục phải nỗ lực đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng ưu đãi từ các FTA để giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Nguồn: doanhnghieptiepthi.vn
Lượng phân bón nhập khẩu của cả nước đạt hơn 2,12 triệu tấn
Trong 5 tháng đầu năm 2024, lượng phân bón nhập khẩu của cả nước đạt hơn 2,12 triệu tấn, trị giá hơn 681,9 triệu USD, giá trung bình đạt 321,4 USD/tấn, tăng 64,6% về khối lượng, tăng 48,8% về kim ngach nhưng giảm 9,7% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5/2024 nhập khẩu phân bón của Việt Nam đạt 531.849 tấn, tương đương 176,64 triệu USD, tăng 7,4% về lượng, tăng 8,3% kim ngạch so với tháng 4/2024. So với tháng 5/2023 tăng mạnh 37,5% về lượng, tăng 43,8% kim ngạch và tăng 4,6% về giá.
Trong tháng 5/2024, nhập khẩu phân bón từ thị trường chủ đạo Trung Quốc giảm 3,4% về lượng, nhưng tăng 0,2% kim ngạch và tăng 3,7% về giá so với tháng 4/2024, đạt 186.366 tấn, tương đương 63,24 triệu USD, giá 339,3 USD/tấn. So với tháng 5/2023 tăng 21,6% về lượng, tăng 45,3% kim ngạch và tăng 19,5% về giá.
Nhập khẩu từ thị trường Nga tháng 5/2024 giảm 7,7% về lượng nhưng tăng 14,8% kim ngạch và tăng 24,4% về giá so với tháng 4/2024, đạt 93.667 tấn, tương đương trên 36,59 triệu USD, giá 390,6 USD/tấn; so với tháng 5/2023 tăng mạnh 161,6% về lượng, tăng 108,2% kim ngạch nhưng giảm 20,4% về giá.
Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2024, lượng phân bón nhập khẩu của cả nước đạt trên 2,12 triệu tấn, trị giá trên 681,9 triệu USD, giá trung bình đạt 321,4 USD/tấn, tăng 64,6% về khối lượng, tăng 48,8% về kim ngạch nhưng giảm 9,7% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Trung Quốc vẫn đứng đầu về thị trường cung cấp phân bón cho Việt Nam, chiếm 39,8% trong tổng lượng và chiếm 33,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước, đạt 845.258 tấn, tương đương 230,45 triệu USD, giá trung bình 272,6 USD/tấn, tăng 33,7% về lượng, tăng 10% về kim ngạch nhưng giảm 17,7% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Tiếp đến thị trường Nga đứng thứ 2, chiếm 15,8% trong tổng lượng và chiếm 22,3% trong tổng kim ngạch, với 335.581 tấn, tương đương 152,28 triệu USD, giá trung bình 453,8 USD/tấn, tăng 453,6% về lượng, tăng 371,7% về kim ngạch nhưng giảm 14,8% về giá so với 5 tháng đầu năm 2023.
Nhập khẩu phân bón từ thị trường Lào đạt 141.887 tấn, tương đương 37,61 triệu USD, tăng 66,6% về lượng, tăng 11,7% kim ngạch so với cùng kỳ, chiếm trên 6,7% trong tổng lượng và chiếm 5,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước.
Nhìn chung, trong 5 tháng đầu năm 2024 nhập khẩu phân bón từ đa số các thị trường tăng so với 5 tháng đầu năm 2023.
Trong năm 2024, các chuyên gia dự báo nguồn cung phân bón sẽ ngày càng thắt chặt do hai nhà cung cấp lớn của thế giới là Trung Quốc và Nga hạn chế xuất khẩu. Điều này có thể khiến giá phân bón trong năm 2024 tăng nhẹ so với các năm trước.
Nguồn: doanhnghieptiepthi.vn