số điện thoại tiếp nhận
phản ánh kiến nghị về tthc
1
Phòng Tổng hợp - UBND tỉnh
Điện thoại: 02963.957.006
Email: thutuchanhchinh@angiang.gov.vn
2
Tổ kiểm tra công vụ
Điện thoại: 02963.957.049 - 0378.247.247
Email: kiemtracongvu@angiang.gov.vn
đường dây nóng ngành nông nghiệp An Giang
1
2
Ông Lê Hoàng Tâm (Phó Chánh Văn phòng Sở)
Điện thoại: 0919.199.392
Email: lhtam@angiang.gov.vn
09:15 09/06/2025
Năm 2025 này mùa mưa đến rất sớm, giúp các địa phương ven biển đỡ bớt chịu cảnh nước biển xâm nhập sâu vào nội đồng gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống. Nhưng nhớ lại mùa khô năm 2024, chắc mỗi chúng ta đều thấy mủi lòng khi người dân phải chắt chiu từng ca nước ngọt. Và thật ấm lòng biết bao trước cảnh hàng đoàn xe vận chuyển những giọt nước nghĩa tình đến tất cả những vùng hạn mặn.
|
Năm 2026 tới đây không biết thời tiết sẽ ra sao, khi mà năm nay mặc dù có mưa nhưng nền nhiệt vẫn khá cao và không khí vẫn rất oi bức. Nhớ hồi xưa, năm 1998, ngay từ những ngày đầu tháng 4, ĐBSCL đã phải chịu “cái nắng rát da”. Rồi tháng 4 của các năm 2010, 2013 cũng vậy. Tôi xin trích lại một đoạn dự báo của Trung tâm Khí tượng thủy văn, "Thời tiết tháng 4/2013 đối với khu vực Nam Bộ, nắng nóng gay gắt vẫn đang bao trùm hầu khắp các tỉnh thành, một số tỉnh thành miền Tây như Sóc Trăng, Mỹ Tho, Long Khánh phổ biến 35-36 độ C, độ ẩm giảm 50-55% khiến không khí trở nên khô nóng". Rồi những ngày đầu tháng 4/2024: Khu vực Nam Bộ, nắng nóng vô cùng, nền nhiệt ban ngày thường xuyên ở mức rất cao, phổ biến 38-40 độ C. Nhiều sông, kênh, mương... mực nước xuống rất thấp, khó có thể bơm lên đồng ruộng. Trái đất đã ngày càng “ấm dần” lên, vậy chúng ta sẽ phải có những hành động gì để hạn chế tầm ảnh hưởng, để thích nghi và phát triển.
|
Trong quyển Đồng bằng sông Cửu Long - Tài nguyên - Môi trường - Phát triển, các nhà khoa học đã phân tích tính năng cải tạo môi trường của rừng Tràm: “Rừng Tràm có sức chịu ngập khoảng 5 tháng/năm,… có tác dụng cải tạo các vùng đất phèn hoạt động và phục hồi các tầng sinh thái đã bị phá vỡ trước đây ở nhiều vùng… Kết hợp rừng Tràm làm hồ chứa như ở U Minh Hạ là một mô hình có thể được nhân rộng và trên thực tế đã bắt đầu được áp dụng ở Đồng Tháp Mười (Tam Nông), Tứ Giác Long Xuyên. Ngoài tác dụng chống cháy tạo điều kiện sống cho thủy sản, kéo theo chim, ong và các động vật khác, nước trong các hồ rừng là một nguồn nước tưới quan trọng cho vùng canh tác chung quanh vào đầu mùa khô. Tại những vùng bị ảnh hưởng lũ, mô hình này có thể giúp khai thác được nước lũ để phát triển nông nghiệp trong mùa nắng. Tuy nhiên, việc quản lý các hồ này cần được nghiên cứu sâu hơn để vừa đạt được các yêu cầu nêu trên, vừa không làm mất thế cân bằng về chế độ nước cho hệ sinh thái rừng Tràm…
Theo Mê Kông ký sự (2006), cán bộ Kiểm lâm rừng Tràm Đồng Tháp Mười rất lo lắng mỗi khi bắt đầu mùa khô; bởi chi phí xăng dầu bơm nước chống cháy cho Rừng lên đến 300 – 500 triệu/năm. Về vấn đề giữ nước cho sông, một tác giả đã đề xuất ý tưởng giúp tăng cường sự chủ động về nguồn nước bằng “hệ thống chứa nước bền vững”. Tác giả đặt vấn đề như sau: Biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, các đập thủy điện ở thượng nguồn Mê Kông… đang bóp nghẹt và tàn phá sự trù phú của ĐBSCL. Thực tế đã cho thấy chúng ta đang thiếu sự chủ động về nguồn nước để ứng phó với hạn - mặn và những biến đổi khác có thể diễn ra trong tương lai… Nhận thức được điều đó, một vài địa phương ở ĐBSCL đã và đang xây dựng các hồ chứa để phục vụ tưới tiêu vào mùa khô. Tuy nhiên, nhu cầu về nước của ĐBSCL là vô cùng lớn và những hồ chứa đơn lẻ không thể đảm bảo được sự chủ động nguồn nước về lâu dài, điển hình là việc hồ Ba Tri ở tỉnh Bến Tre cạn đáy vào tháng 4 năm 2020… Khi gần như toàn bộ đồng bằng hiện nay là đất canh tác thì việc xây dựng đủ số lượng hồ chứa cần thiết là không khả thi bởi nếu lấy đất trồng trọt để xây dựng các hồ chỉ có chức năng chứa nước là không bền vững về mặt kinh tế. Hơn nữa, mặt nước mở trên một diện tích rộng cũng gây ra lượng bốc hơi rất lớn, từ đó làm giảm tính hiệu quả của hồ chứa… ĐBSCL cần một hệ thống chứa và điều tiết nước bền vững về cả kinh tế lẫn sinh thái, để không chỉ đảm bảo nhu cầu về nước ngọt mà còn mang lại sinh kế cho người dân và nâng cao chất lượng môi trường; từ đó, tăng khả năng thích ứng của đồng bằng trước những biến đổi và tác động từ bên ngoài. Tác giả đề xuất: Lựa chọn các kênh cấp 3, kênh nội đồng (có chiều rộng trên 10 mét, không có đông dân cư sinh sống dọc bờ kênh) để chuyển đổi thành các dãy rừng Tràm, hay còn gọi là “kênh Xanh”.
Các con kênh được đào sâu và mở rộng từ 20 – 25 mét về mỗi bên, và trồng Tràm ven bờ kênh. Lượng đất từ việc đào kênh được dùng để đắp thành các đê cao chạy dọc theo rừng Tràm để tạo thành một hồ chứa nước.
|
Về cơ bản, kênh Xanh có hình thức tương tự hồ Ba Tri ở tỉnh Bến Tre nhưng được trồng Tràm dọc hai bên. Rừng Tràm sẽ giúp giảm bốc hơi nước và quan trọng là tạo ra các nguồn thu nhập cho người dân địa phương.
Dùng đất canh tác để đào kênh, nên việc tạo ra sinh kế từ các hồ chứa là vô cùng quan trọng bởi nó quyết định sự khả thi về mặt kinh tế, giúp nhân rộng mô hình và đáp ứng được nhu cầu về nước cho cả vùng.
Ngọc Diệp